Ngành Có Kim Ngạch Xuất Khẩu Lớn Nhất Việt Nam

Ngành Có Kim Ngạch Xuất Khẩu Lớn Nhất Việt Nam

Theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), trong 11 tháng năm 2023, có 33 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm trước như: Điện tử, máy tính và linh kiện (đạt 4,9 tỷ USD, tăng 20,2%); Điện thoại các loại và linh kiện (đạt 4,7 tỷ USD, tăng 3,9%); máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng (đạt 4 tỷ USD, tăng 5%); gỗ và sản phẩm gỗ (đạt 1,2 tỷ USD, tăng 1,6%); phương tiện vận tải và phụ tùng (đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,9%); thủy sản (đạt 800 triệu USD, tăng 1,4%); sắt thép (đạt 586 triệu USD, tăng 25,4%).

Theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), trong 11 tháng năm 2023, có 33 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm trước như: Điện tử, máy tính và linh kiện (đạt 4,9 tỷ USD, tăng 20,2%); Điện thoại các loại và linh kiện (đạt 4,7 tỷ USD, tăng 3,9%); máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng (đạt 4 tỷ USD, tăng 5%); gỗ và sản phẩm gỗ (đạt 1,2 tỷ USD, tăng 1,6%); phương tiện vận tải và phụ tùng (đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,9%); thủy sản (đạt 800 triệu USD, tăng 1,4%); sắt thép (đạt 586 triệu USD, tăng 25,4%).

Kim ngạch xuất nhập khẩu (Export-import turnover)

Kim ngạch xuất nhập khẩu trong tiếng Anh là Export-import turnover.

Kim ngạch xuất khẩu (Export turnover) là tổng giá trị xuất khẩu của các (hoặc một) hàng hoá xuất khẩu của quốc gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kì nhất định thường là quý hoặc năm, sau đó qui đổi đồng nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định

Kim ngạch nhập khẩu (Import turnover) là tổng giá trị nhập khẩu của các (hoặc một) hàng hoá nhập khẩu vào quốc gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kì nhất định qui đổi đồng nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định.

Kim ngạch xuất nhập khẩu (Export-import turnover) là tổng kim ngạch nhập khẩu cộng tổng kim ngạch xuất khẩu.

Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 244,72 tỉ USD, tăng 13,8% so với năm 2017. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 69,2 tỉ  USD, tăng 15,9%, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 175,52 tỉ USD, tăng 12,9%, chiếm 71,7% (giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2017).

Năm 2018 là năm thành công với chỉ tiêu xuất khẩu và cán cân thương mại khi tăng trưởng xuất khẩu đạt tốt với 13,8%, cao hơn chỉ tiêu đặt ra từ đầu năm. Qui mô xuất khẩu tăng mạnh, hiện nay cả nước có khoảng 26 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD, 8 mặt hàng đạt trên 5 tỉ USD và 5 mặt hàng trên 10 tỉ  USD.

Khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước tiếp tục có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tốt, đạt 69,2 tỉ USD, tăng 15,9% so với cùng kì. Nếu các năm trước, tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước thường xuyên đạt thấp hơn khối FDI thì năm 2018 đã "đảo chiều", đạt cao hơn khối FDI.

Cùng với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt tốt, cán cân thương mại năm 2018 đã duy trì thặng dư, ước đạt 7,2 tỉ USD, cao nhất từ trước đến nay. Việc kiểm soát tốt cán cân thương mại giúp tăng nguồn cung ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại hối, ổn định cán cân thương mại thanh toán quốc tế.

Dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu 2019

Năm 2019, Bộ Công Thương đặt mục tiêu tập trung các giải pháp đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa như phát triển sản xuất và tạo nguồn hàng chất lượng để đảm bảo qui mô xuất khẩu; phát triển và mở cửa thị trường; tổ chức tốt hoạt động xuất khẩu và liên kết chuỗi sản xuất, chế biến.

Đặc biệt, tập trung nâng cao hiệu quả kết nối, phối hợp đồng bộ với các đơn vị giải quyết vấn đề phát sinh trong thương mại quốc tế như chống trợ cấp, chống bán phá giá... Thay đổi căn bản trong xúc tiến thương mại, đi sâu vào các mặt hàng chủ lực trong từng giai đoạn chứ không làm dàn trải như hiện nay để đưa sản phẩm Việt Nam đến ngày càng nhiều thị trường trên thế giới.

(Tài liệu tham khảo: Tạp chí Tài chính)

9 tháng năm 2024, Việt Nam xuất khẩu được 9.274 tấn ớt, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 22,2 triệu USD, tăng 5,3% về lượng và tăng 31,8% về kim ngạch so cùng kỳ.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA), xuất khẩu ớt của Việt Nam trong tháng 9 đạt 474 tấn với kim ngạch 1 triệu USD, giảm 39% so với tháng trước. Lào là thị trường xuất khẩu ớt chính của Việt Nam trong tháng 9 đạt 206 tấn, tiếp theo là Trung Quốc 154 tấn.

Lũy kế trong 9 tháng năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu được 9.274 tấn ớt, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 22,2 triệu USD, tăng 5,3% về lượng và tăng mạnh 31,8% về kim ngạch so với cùng kỳ. Các thị trường xuất khẩu hàng đầu bao gồm: Trung Quốc và Lào chiếm tới 33% và 43% thị phần.

Ớt là loại quả không còn xa lạ gì với người tiêu dùng Việt Nam, được bán với mức giá dao động từ 22.000 - 28.000 đồng/kg. Người nông dân ví cây ớt là loại cây ‘một vốn mười lời’ vì ớt có đặc điểm sinh trưởng ngắn ngày, có thể trồng xen với cây ăn quả và không đòi hỏi nhiều công chăm sóc nên phù hợp với điều kiện canh tác của người nông dân trên khắp cả nước. Thông thường, ớt sẽ được xuống giống cây vào khoảng tháng 9 đến tháng 11 hằng năm. Cây ớt sau 2 tháng trồng bắt đầu cho thu hoạch từ 3 - 4 đợt trong khoảng 3 tháng, chất lượng quả cao nhất với trọng lượng lý tưởng có thể lên đến 4kg mỗi cây.

Trên thế giới, ớt được trồng trên diện tích khoảng 19,89 triệu ha. Các nước trồng ớt chính là Ấn Độ, Myanmar, Bangladesh, Pakistan, Thái Lan, Việt Nam, Romania, Trung Quốc, Nigeria và Mexico… Riêng đối với ớt khô, Ấn Độ là nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới, chiếm hơn 6,11% vào năm 2021, tiếp theo là Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia. Ấn Độ cũng là nhà sản xuất và tiêu thụ ớt hàng đầu thế giới với khoảng 36% sản lượng toàn cầu, xuất khẩu khoảng 30% tổng sản lượng.

Tại Việt Nam, cây ớt ở Đồng Tháp và đặc biệt là ở huyện Thanh Bình được coi là “vựa ớt lớn nhất miền Tây”. Các xã vùng cù lao và các xã vùng ven sông Tiền là những khu vực tập trung nhiều diện tích trồng ớt. Sản lượng ớt tươi hơn 22.500 tấn/năm. Theo thống kê, diện tích trồng ớt ở tỉnh Đồng Tháp hiện có gần 2.000 ha/năm, năng suất bình quân hơn 10 tấn/ha.

Bên cạnh đó, Lạng Sơn cũng là một trong những vùng trồng ớt trọng điểm, diện tích trồng ớt trên địa bàn tỉnh đạt hơn 1.479ha, tăng 91ha so niên vụ năm 2022.

Trung Quốc giữ vai trò là thị trường xuất khẩu lớn nhất mặt hàng ớt trong những năm gần đây. Theo một số chuyên gia nhận định, do ớt Việt có độ cay cao và có nhiều loại khác nhau như ớt chỉ thiên, ớt hiểm, ớt sừng vàng... đều rất cay nên được thị trường này ưa chuộng.

Trước đó, từ tháng 3/2022, ớt tươi của Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc. Các lô hàng ớt tươi đều phải được xử lý kiểm dịch và chú thích rõ các tham số liên quan trong chứng thư kiểm dịch thực vật.

Trong năm 2023, xuất khẩu ớt đạt kim ngạch 20 triệu USD, tương ứng với hơn 10.000 tấn, tăng mạnh 107% so với năm 2022. Việt Nam là một trong những quốc gia sản xuất ớt lớn nhất thế giới.

(Xây dựng) - Những mặt hàng xuất khẩu lớn sang thị trường Nga trong nửa đầu năm 2024 là dệt may, cà phê, điện tử… Trong đó, dệt may có kim ngạch cao nhất với 398 triệu USD, chiếm 33,9% tổng giá trị xuất sang nước này.

Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Nga trong nửa đầu năm 2024 đạt 1,17 tỷ USD, tăng 44% so với mức 812 triệu USD ghi nhận cùng kỳ năm trước.

Đáng chú ý, trong số 22 mặt hàng chính xuất khẩu sang Nga, dệt may là mặt hàng có kim ngạch cao nhất với 398 triệu USD, chiếm 33,9% tổng giá trị xuất sang thị trường này. Tiếp theo là cà phê với 189 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 117 triệu USD.

Về nhóm nông thủy sản, Việt Nam xuất khẩu hàng thủy sản sang Nga đạt 95 triệu USD, tăng tới 105% so với cùng kỳ năm trước; rau quả đạt 32 triệu USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước; hạt điều đạt 32 triệu USD, tăng 58% so với cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu cũng tăng 98% so với cùng kỳ năm trước, lên mức 15 triệu USD; gạo tăng 76% so với cùng kỳ năm trước, đạt 3,7 triệu USD. Hạt tiêu là mặt hàng duy nhất trong nhóm có đà giảm về kim ngạch với -3,3% so với cùng kỳ năm trước, còn 5,8 triệu USD.

Đặc biệt, các mặt hàng thuộc nhóm kim ngạch trên 100 triệu USD đều có mức tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm 2024. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nga tăng tới 86% so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 102% so với cùng kỳ năm trước. Cà phê xuất khẩu sang thị trường này dù tăng nhẹ hơn so với hai mặt hàng trên nhưng cũng đạt mức +35%so với cùng kỳ năm 2023.

Tuy nhiên, ngoài kết quả tích cực, các doanh nghiệp dệt may đang phải đối mặt với việc giá đơn hàng không tăng, trong khi chi phí vận tải biển đã tăng liên tục trong thời gian qua. Điều này dẫn tới việc khách hàng yêu cầu doanh nghiệp Việt phải chia sẻ một phần chi phí vận chuyển, ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của doanh nghiệp.

Nhằm tăng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may, cũng như gia tăng xuất khẩu, doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra giá trị cao hơn cho sản phẩm. Trong đó, điểm cần lưu ý nhất là phải tập trung vào xu hướng xanh hóa sản phẩm dệt may.

Nhiều thị trường, đặc biệt là thị trường châu Âu, Nhật Bản đã đưa ra yêu cầu mới cho sản phẩm dệt may - đó là tiêu chuẩn xanh. Để có sản phẩm xanh, thì nhà máy phải đạt tiêu chuẩn ESG, phải dùng điện năng lượng mặt trời, phải giảm nước thải và đạt các chứng chỉ carbon…

Tuy nhiên, dù doanh nghiệp nhận thức nên làm sản phẩm xanh nhưng do biên lợi nhuận thấp nên việc đầu tư cho công nghệ mới còn khó khăn. Vì vậy, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho rằng, cần có gói tín dụng xanh cho các doanh nghiệp đầu tư xanh. Đồng thời, ngành thuế cũng cần có chính sách giảm thuế thu nhập cho những doanh nghiệp này để họ có thêm động lực chuyển đổi.