Những người không hoạt động thể chất có nguy cơ bị béo phì gấp đôi. Đây là mối lo ngại về sức khỏe nghiêm trọng đối với bất cứ ai, dù trẻ hay già. Có rất nhiều bệnh liên quan đến béo phì như tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim và ngưng thở khi ngủ.
Những người không hoạt động thể chất có nguy cơ bị béo phì gấp đôi. Đây là mối lo ngại về sức khỏe nghiêm trọng đối với bất cứ ai, dù trẻ hay già. Có rất nhiều bệnh liên quan đến béo phì như tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim và ngưng thở khi ngủ.
Một trong những sự cố đáng ngại nhất khi phẫu thuật là gây mê thất bại. Tuy rất hiếm, nhưng vẫn có thể xảy ra trong thực tế, chuyên môn gọi đây là sự cố anesthesia awareness (Khả năng bệnh nhân bị thức tỉnh, gọi tắt là sự cố AA). Tình trạng bệnh nhân tỉnh trong lúc phẫu thuật hay thủ thuật, có thể nhớ lại những sự kiện hay môi trường xung quanh.
Khi sự cố xảy ra, bệnh nhân có thể nhớ lại các bước phẫu thuật, nhớ nỗi đau, áp lực, sợ hãi; thậm chí có thể nhìn thấy những gì đã xảy ra. Điều này chỉ xảy ra khi thuốc không được đúng hoặc không đúng liều, hoặc sai sót của bác sĩ gây mê. Trong những trường hợp này, đôi khi người trong cuộc vẫn tỉnh táo nhưng bị liệt trong khi phẫu thuật, thậm chí có thể cảm thấy toàn bộ quy trình đang được thực hiện.
Bộ não của bạn không chỉ không thể nói chuyện với các dây thần kinh gửi tín hiệu từ tứ chi, cơ quan và cơ bắp mà còn không thể nói chuyện với chính nó. Nếu bình thường, các tín hiệu điện di chuyển nhanh chóng giúp giao tiếp tốt với nhau, nhưng khi không thành công, mọi thứ bị đảo lộn. Đầu tiên, các tín hiệu ngừng hoạt động và để phản ứng, cơ thể “chùng xuống”. Nhịp thở và nhịp tim ổn định; nhưng nghiên cứu cho thấy, não lại không còn giao tiếp với chính nó nữa. Điều này xảy ra do một số loại thuốc gây mê liên kết với thụ thể GABAA trong não, chúng làm cho các “cánh cổng” giữa các phần của tâm trí mở ra, cho phép các hạt mang điện tích âm “chảy” vào tế bào.
Một bộ phận quan trọng khác của cơ thể có thể cảm nhận được tác động của việc gây mê toàn thân, đó là cột sống. Gây mê toàn thân sẽ tác động tới dòng máu ngay sau khi hít hoặc tiêm thuốc và từ đây nó tác động đến tủy sống. Cột sống cũng là bộ phận điều khiển cảm giác và cử động ở tay chân của bạn. Vì vậy, khi thuốc gây mê làm suy giảm dòng hoạt động thần kinh qua cột sống, cơ thể bạn sẽ ngừng di chuyển ngay cả khi bệnh nhân còn tỉnh. Nói cách khác là bị tê liệt hoàn toàn. Người trong cuộc sẽ không nhận ra điều này khi đang ở giai đoạn 3 của quá trình gây mê. Khi thức dậy, một số người bị tê liệt, họ không thể cảm nhận hoặc cử động tay chân.
Một số điều xảy ra đối với cơ thể khi gây mê đã được khoa học kiểm chứng.
Trong suốt quá trình phẫu thuật, bác sĩ gây mê sẽ túc trực để theo dõi và can thiệp nếu có sai sót xảy ra. Trong giai đoạn thứ hai của quá trình gây mê, người bệnh có thể bị nôn mửa, dễ nghẹt thở, thậm chí còn bị co giật. Chất lỏng có thể xâm nhập vào phổi dẫn đến viêm phổi hoặc nhiễm trùng. Bạn có thể bị đột quỵ khi đang được gây mê toàn thân. Phổ biến nhất là khi thuốc quá nhiều đối với não, dây thần kinh; cơ thể của bạn bị ức chế đến mức tim và phổi của bạn ngừng hoạt động. Các bác sĩ gây mê sẽ giám sát chặt chẽ những sự cố này trong suốt quá trình phẫu thuật để can thiệp nhằm giảm thiểu thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Nếu không tập thể dục, cơ bắp sẽ trở nên mỏng và yếu. Một lối sống tĩnh tại thậm chí có thể dẫn đến teo cơ. Điều này có nghĩa là cơ sẽ giảm khối lượng, mất linh hoạt và có nhiều khả năng bị thương tổn.
Giảm vận động, cơ thể bắt đầu giảm khối lượng xương. Không hoạt động càng lâu, xương càng yếu. Hoạt động thể chất giúp củng cố xương và ngăn ngừa loãng xương. Chúng ta có thể đưa “sức khoẻ của xương” vào danh sách các lý do quan trọng để tập thể dục, bởi vì chúng ta đều biết rằng lực nén của các bài tập chịu lực và rèn luyện cơ lực có thể giúp tăng khối xương. Ít vận động thể chất, các khớp không được linh hoạt và dễ bị thoái hóa theo tuổi tác...
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu không tập thể dục thường xuyên, bạn sẽ có một hệ thống miễn dịch suy yếu. Bạn sẽ dễ bị cúm và cảm lạnh thông thường. Nếu bạn đang bị bệnh thường xuyên, hãy bắt đầu tập thể dục ngay, đây là biện pháp ngăn ngừa hiệu quả sự suy giảm của hệ miễn dịch, nhất là trong giai đoạn dịch COVID-19 như hiện nay.
Các nhà nghiên cứu khám phá ra rằng, 60 - 90% những người thường xuyên tham gia các hoạt động thể chất chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư ít bị cảm lạnh hơn so với những người không rèn luyện thể chất.
Một chế độ luyện tập thể dục thể thao điều độ chính là một cách thức hiệu quả để tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, và điều này đặc biệt thể hiện rõ ràng hơn ở người lớn tuổi.
Không tập thể dục, lượng máu sẽ gây áp lực lên vách động mạch nhiều hơn, dễ dẫn đến tăng huyết áp. Đây là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với các bệnh khác như bệnh tim mạch, bệnh thận và đột quỵ... Nhờ hoạt động thể chất trái tim sẽ hoạt động mạnh mẽ hơn, nhờ đó tim và hệ tuần hoàn bơm máu sẽ hiệu quả hơn.
Lưu lượng máu có thể bị suy giảm khi không tập thể dục. Cholesterol cao là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tim, cholesterol tăng lên khi không hoạt động thể chất. Các bài tập thể dục sẽ giúp giảm cholesterol LDL và tăng HDL, do đó giúp ngăn ngừa bệnh tim.
Bệnh đái tháo đường type 2 xảy ra khi cơ thể không sản xuất đủ insulin hoặc hình thành tình trạng kháng insulin. Hai yếu tố này có thể xuất hiện khi thừa cân và không tập thể dục đầy đủ.
Hoạt động thể chất không đầy đủ có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng. Do quá trình tiêu hóa bị chậm lại, chất thải tích tụ trong ruột già lâu hơn, cơ thể có thể tiếp xúc với chất gây ung thư lâu hơn. Ngoài ra, tập thể dục còn giúp điều chỉnh lượng hormon, vì vậy làm giảm nguy cơ ung thư vú. Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ khuyến cáo tập thể dục thường xuyên giúp điều chỉnh hormon trong cơ thể, từ đó hạn chế hình thành các khối u ung thư.
Thay đổi lối sống khiến bạn di chuyển nhiều hơn hàng ngày, chẳng hạn như đi cầu thang hoặc đi dạo, cũng có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể cho sức khỏe của bạn. Các chuyên gia khuyến cáo, nên có 150 phút tập thể dục sức bền và 2 buổi tập luyện sức mạnh hàng tuần. Hoặc đơn giản dễ thực hiện, bạn chỉ cần đi bộ 30 phút mỗi ngày, tối thiểu 5 ngày mỗi tuần, kèm thêm tăng hoạt động thể chất hàng ngày, loại bỏ lối sống tĩnh tại. Điều này rất có lợi cho sức khỏe và tuổi thọ của mỗi chúng ta.
Gây mê hoặc gây tê (anaesthesia) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, là một trạng thái mất cảm giác, hoặc nhận thức tạm thời có kiểm soát được gây ra cho các mục đích y tế.
Có ba loại gây mê chính: Gây mê toàn thân ức chế hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dẫn đến bất tỉnh và mất cảm giác hoàn toàn, sử dụng thuốc tiêm hoặc hít. Dùng thuốc an thần ức chế hệ thần kinh trung ương ở mức độ nhẹ hơn, ức chế cả lo lắng và tạo ra những ký ức dài hạn mà không dẫn đến bất tỉnh. Và gây tê vùng và tại chỗ, ngăn chặn việc truyền các xung thần kinh từ một bộ phận cụ thể của cơ thể. Tùy thuộc tình hình, thuốc này có thể được sử dụng riêng (bệnh nhân vẫn hoàn toàn tỉnh táo), hoặc kết hợp với gây mê toàn thân hoặc an thần. Thuốc có thể được nhắm mục tiêu vào các dây thần kinh ngoại vi để chỉ gây mê một phần cơ thể bị cô lập, chẳng hạn như gây tê một chiếc răng để làm răng hoặc sử dụng một khối dây thần kinh để ức chế cảm giác ở toàn bộ chi.
Ngoài ra, gây tê ngoài màng cứng và tủy sống có thể được thực hiện trong chính vùng của hệ thống thần kinh trung ương, ngăn chặn tất cả cảm giác đến từ các dây thần kinh cung cấp cho khu vực của khối. Khi chuẩn bị cho một thủ thuật y tế, bác sĩ lâm sàng chọn một hoặc nhiều loại thuốc để đạt được mức độ thích hợp cho loại thủ thuật và bệnh nhân cụ thể. Các loại thuốc được sử dụng có thuốc gây mê toàn thân, thuốc gây tê cục bộ, thuốc ngủ, thuốc phân ly, thuốc an thần, thuốc bổ trợ, thuốc ngăn chặn thần kinh cơ, thuốc gây nghiện và thuốc giảm đau.
Rủi ro của các biến chứng trong hoặc sau khi gây mê liên quan đến ba yếu tố: sức khỏe bệnh nhân, sự phức tạp của quy trình và kỹ thuật gây mê. Trong những yếu tố này, yếu tố sức khỏe của người bệnh được xem là quan trọng nhất. Những rủi ro chính sau phẫu thuật có thể bao gồm tử vong, đau tim và thuyên tắc phổi, trong khi những rủi ro nhỏ có thể bao gồm buồn nôn và nôn sau phẫu thuật. Một số tình trạng như ngộ độc thuốc gây mê cục bộ, chấn thương đường thở hoặc tăng thân nhiệt ác tính, có thể được quy trực tiếp hơn cho các loại thuốc và kỹ thuật gây mê cụ thể.
Cho dù là gây tê hay gây mê đều làm cho cảm giác đau cục bộ hay một vùng rộng. Gây mê là làm cho bệnh nhân mất tri giác toàn thân do thuốc mê tác dụng lên não bộ. Nói cách khác, gây mê thì tác động trên não và làm mất cảm giác toàn thân. Người ta có thể chích thuốc qua tĩnh mạch hay cho bệnh nhân ngửi thuốc mê qua đường thở. Khi được gây mê, bệnh nhân sẽ không cảm thấy đau khi mổ, không biết cuộc mổ xảy ra thế nào và vào thời điểm nào. Gây tê làm mất cảm giác tại chỗ, làm tê một vùng nhỏ của cơ thể. Người ta dùng thuốc tê tiêm tại chỗ và ức chế cảm giác đau đớn. Các trường hợp tiểu phẫu thuật đều được áp dụng tê tại chỗ. Vì tê tại chỗ nên bệnh nhân hoàn toàn tỉnh khi làm phẫu thuật. Bác sĩ có thể cho bệnh nhân tiền mê bằng vài loại thuốc để bệnh nhân thư giãn hoặc ngủ nhẹ. Gây tê vùng là làm tê một vùng rộng hơn. Tê vùng là chích thuốc tê vào tủy sống hay ngoài màng cứng. Người ta chích thuốc tê vào tủy sống và những rễ thần kinh tương ứng. Tê vùng làm mất cảm giác một vùng lớn của cơ thể như bụng, lưng hay hai chân, tay.